Brazil xứng đáng là cái tên được nhắc đến đầu tiên vì có sản lượng cà phê hàng đầu thế giới. Brazil cũng nhà sản xuất hạt cà phê cao cấp nhất trong suốt hơn 150 năm qua. Tổng diện tích đồn điền cà phê của đất nước này khoảng 27.000 km vuông, tập trung ở các vùng Minas Gerais, Sao Paulo và Parana – nơi có khí hậu lý tưởng cho sự sinh trưởng và phát triển của cây cà phê.
Brazil xứng đáng là cái tên được nhắc đến đầu tiên vì có sản lượng cà phê hàng đầu thế giới. Brazil cũng nhà sản xuất hạt cà phê cao cấp nhất trong suốt hơn 150 năm qua. Tổng diện tích đồn điền cà phê của đất nước này khoảng 27.000 km vuông, tập trung ở các vùng Minas Gerais, Sao Paulo và Parana – nơi có khí hậu lý tưởng cho sự sinh trưởng và phát triển của cây cà phê.
Xuất khẩu cà phê Robusta đạt xấp xỉ 111,7 nghìn tấn; trị giá 177,83 triệu USD trong tháng 05/2021. Tăng 2% về lượng và tăng 12,5% về trị giá so với tháng 05/2020. Trong 05 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu cà phê Robusta đạt 618,9 nghìn tấn; trị giá 969,23 triệu USD; giảm 10,9% về lượng và giảm 5,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020 (Số liệu từ thống kê của Tổng cục Hải quan).
Bên cạnh đó, cà phê Việt khi xuất khẩu còn phải đối mặt với những vấn đề khác như giá container và đối thủ cạnh tranh. Do tình trạng thiếu hụt container và hàng hóa tồn đọng trước đó dẫn đến việc giá cước tăng vọt. Hơn nữa, cà phê Việt Nam cạnh tranh với nhiều quốc gia khác, trong đó có Brazil – nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới. Với việc gia tăng mạnh về diện tích, sản lượng cà phê của Brazil sẽ gây khó khăn cho xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Brazil là đối thủ cạnh tranh lớn với cà phê Việt Nam
Tuy nhiên, Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA) dự báo rằng sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam niên vụ 2021/22 sẽ phục hồi từ 1,8 triệu bao lên 30,8 triệu bao; trong khi tồn trữ sẽ giảm nhẹ. Trong đó, Robusta chiếm hơn 95% tổng sản lượng và giá cả có xu hướng tăng trong 12 tháng qua. Người trồng cà phê có thêm động lực tăng năng suất bằng cách chấp nhận tốn kém hơn để tưới tiêu cho cây cà phê trong mùa khô. Trước những dự báo tích cực trên cùng Innovative Hub xem qua cà phê Việt Nam đứng thứ mấy trên thế giới nhé!
Từ những năm 1700, cà phê đã được trồng ở khắp các vùng ở miền Bắc, vành đai miền Trung và miền Nam Peru. Giống như Honduras, phần lớn sản lượng cà phê ở Peru trước đây đều được người dân tiêu dùng là chính. Cà phê Peru có hai loại chính, được chia cùng với các đồn điền. Những loại được trồng ở vùng cao (đặc biệt là Andes) dào dạt hương vị hoa. Những cây ở vùng đồng bằng thường có thân trung bình với hương hoa và trái cây.
Brazil là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới hơn 150 năm. Vào đầu thế kỷ 20, quốc gia này chiếm gần 80% lượng cà phê xuất khẩu trên thế giới. Hiện tại, tổng kim ngạch xuất khẩu bằng một phần ba sản lượng còn lại của thế giới. Điều này không quá ngạc nhiên khi Brazil sở hữu vị trí địa lý thuận lợi để trồng cà phê Arabica và Robusta. Thêm vào đó, cà phê Brazil nổi tiếng với vị kem đặc, độ chua thấp, hương socola và caramel giàu vị đắng nhẹ tinh tế. Với hơn 20,000 đồn điền cà phê trải rộng trên 10.000 dặm vuông, Brazil đang vượt xa các quốc gia khác.
RAAW COFFEE Thursday, 16 May, 2024
Brazil là nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới trong hơn 150 năm. Hiện nay, Brazil trồng khoảng một phần ba lượng cà phê của thế giới, mặc dù trước đây thị phần của nước này cao tới 80%. Cà phê được du nhập vào Brazil từ vùng thuộc địa Guiana thuộc Pháp vào năm 1727, khi nước này vẫn nằm dưới sự cai trị của Bồ Đào Nha. Cây cà phê đầu tiên ở Brazil được trồng bởi Francisco de Melo Palheta ở vùng Para ở phía bắc đất nước.
Brazil là nước trồng cà phê lớn hàng đầu thế giới, những thông tin sau đây được thống kê bởi CafeImports vào năm 2017:
Dân số tham gia vào ngành cà phê: Khoảng 360.000 nông dân & công nhân làm thuê cho nông trại.
Quy mô trang trại trung bình: từ nông trại nhỏ 0.5 hecta đến những đồn điền 10,000 hecta.
Sản lượng xuất khẩu hàng năm: 45 – 60 triệu bao (60 kg).
Hoạt động canh tác cà phê Brazil
Giống cà phê phổ biến: Bourbon (đa phần là Bourbon vàng) Typica, Caturra, Catuai, Catimor, Maragogype…
Phương pháp chế biến: Đa dạng, phổ biến là chế biến khô và chế biến theo phương pháp truyền thống Pulped Natural.
Phần lớn cà phê Brazil được giao dịch trên thế giới đều xuất phát từ 6 khu vực chính: Minas Gerais (1.22 Triệu ha); Espirito Santo (433,000 ha); Sao Paulo (216,000 ha); Bahia (171,000 ha); Rondonia (95,000 ha); cuối cùng là Parana (49,000 ha).
Brazil canh tác cả hai loại cà phê chính là Arabica và Robusta, trong đó giống cà phê Arabica vẫn chiếm ưu thế với khoảng 85%; sản lượng còn lại là Robusta. Tại Brazil, canh tác Arabica tập trung trong cụm khu vực cà phê quốc gia và được dẫn đầu bởi Rio. Trong khi đó cà phê Robusta chủ yếu được trồng ở các bang nhỏ hơn như Espirito Santo (bang này hiện cung cấp cho 80% lượng cà phê robusta) và Rondonia – vùng màu cam ở phía Tây bắc.
Brazil có độ cao địa hình tương đối thấp (95% đất đai Brazil nằm dưới 900m so với mực nước biển).
Khởi đầu của thương mại cà phê tại Brazil
Việc sản xuất cà phê thương mại bắt đầu xung quanh sông Paraíba (gần Rio de Janeiro). Khu vực này phù hợp với cà phê, không chỉ vì đất đai lý tưởng, mà còn vì vị trí gần cảng Rio de Janeiro sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho xuất khẩu. Trái ngược với các trang trại cà phê nhỏ hơn từng phát triển mạnh mẽ ở Trung Mỹ, các trang trại thương mại đầu tiên của Brazil là những đồn điền lớn do nô lệ làm công.
Khi đất đai trở nên cạn kiệt do thâm canh, trang trại sẽ chuyển sang khia phá vùng đất khác. Sản lượng cà phê bùng nổ từ năm 1820 đến năm 1830, vượt qua nhu cầu của người uống cà phê Brazil và bắt đầu cung cấp cho thị trường toàn cầu rộng lớn hơn. Những người kiểm soát việc sản xuất cà phê trở nên vô cùng giàu có và rất quyền lực và được gọi là “ông trùm cà phê”. Nhu cầu của họ sẽ có tác động đáng kể đến các chính sách của chính phủ và sự hỗ trợ của chính phủ đối với ngành cà phê.
Nô lệ trong một trang trại cà phê ở Brazil, năm 1882 | Ảnh: https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Slaves_working_on_a_coffee_plantation_02.jpg
Đến năm 1830, Brazil sản xuất 30% lượng cà phê trên thế giới. Con số này đã tăng lên 40% vào năm 1840, mặc dù nguồn cung tăng mạnh dẫn đến giá cà phê toàn cầu giảm. Cho đến giữa thế kỷ 19, ngành công nghiệp cà phê của Brazil phụ thuộc vào lao động nô lệ. Hơn 1,5 triệu nô lệ đã được đưa đến Brazil để làm việc trên các đồn điền cà phê.
Trong thời kỳ thuộc địa, các đồn điền cà phê ở Brazil đã làm gia tăng nạn phá rừng (việc trồng cà phê sẽ diễn ra trong vài thập kỷ và chuyển sang vùng đất khác khi đất mất đi độ phì nhiêu). Hoạt động sản xuất cà phê “bề mặt” qua này không gắn kết vào lịch sử của bất kỳ địa phương nào mà còn gắn liền với chế độ nô lệ, đàn áp – Từng có thời kỳ 1/3 dân số Brazill là nô lệ tham gia vào canh tác cà phê và nước này cũng là quốc gia sau cùng xóa bỏ chế độ nô lệ.
Với việc Brazil là nhà cung cấp cà phê hàng đầu thế giới, bất cứ điều gì ảnh hưởng đến sản xuất ở Brazil đều có tác động trực tiếp đến giá toàn cầu. Một trong những yếu tố đó là chu kỳ luân phiên của vụ mùa hàng năm của Brazil. Qua nhiều năm, rõ ràng Brazil sẽ luân phiên giữa một vụ thu hoạch lớn và thu hoạch nhỏ (bắt nguồn từ chu kỳ tự nhiên của cây phê). Một số công việc (chẵn hạn như cắt tỉa cành) đã được thực hiện trong những năm gần đây để cố gắng giảm thiểu tác động này, và ổn định hơn qua từng năm.
Nếu như biến động chu kỳ của vụ mùa có thể làm biến động nhẹ, thì băng giá tại Brazil lại có có thể làm “lật đổ” toàn bộ thị trường cà phê. Sương giá (White Frosts) hay còn gọi là sương muối sẽ làm chết những bông hoa, chồi non trong giai đoạn phát triển. Vì vậy sương muối chỉ ảnh hưởng lớn đến vụ thu hoạch năm sau, song các đợt sương muối nghiêm trọng có thể giết chế toàn bộ cây cà phê trưởng thành. Khi cà phê được tái canh sau đợt sương muối nó phải mất nhiều năm sinh trưởng cho đến khi thu hoạch.
Cây cà phê bị sương giá (sương muối) tại Brazill
Brazil từng là nước sản xuất cà phê lớn nhất bị tổn thất do sương muối. Trong quá khứ, đã có những sự cố nghiêm trọng như sương giá đen năm 1975, làm giảm gần 75% vụ mùa năm 1976/77. Do sương giá, giá cà phê toàn cầu gần như tăng gấp đôi ngay lập tức. Năm 2000 và 2001 có hai năm liên tiếp mất mùa, dẫn đến một vụ thu hoạch lớn vào năm 2002, với sản lượng cà phê khổng lồ. Điều này trùng hợp với một thời gian dài khác của giá cà phê thấp, do dư thừa cà phê trên thị trường toàn cầu.
Hoạt động sản xuất cà phê Brazil
Không thể phủ nhận Brazil là quốc gia sản xuất cà phê công nghiệp và tiên tiến nhất trên thế giới. Với việc tập trung vào năng suất và sản lượng, nó đã không giữ được danh tiếng về sản xuất cà phê chất lượng cao.
Hầu hết các trang trại lớn sử dụng các kỹ thuật hái dảy, trong đó toàn bộ cành và quả bị tước đi chỉ trong một lần. Nếu các đồn điền lớn và bằng phẳng (phổ biến ở các trang trại cà phê lớn hơn của Brazil), họ sử dụng máy thu hoạch để lắc quả cà phê rớt khỏi cành. Cả hai phương pháp đều không tính đến độ chín, và kết quả là có một số lượng lớn quả chưa chín trong cà phê đã thu hoạch.
(nguồn ảnh: Carmo de Minas, Brazil)
Một trong những vai trò quan trọng của Brazil trong ngành cà phê, là sự đóng góp đáng kể cho tính đa dạng sinh học của giống loài cà phê trên thế giới. Rất nhiều giống cà phê Arabica đột biến tự nhiên hoặc được lai tạo đã phổ biến bên ngoài biên giới Brazil và đến với khu vực Mỹ La Tinh trước phổ biến toàn cầu.
Điển hình như cây cà phê Caturra một dạng đột biến lùn của giống cà phê Boubon được thực hiện bởi Viện Nông nghiệp Brazil (Agronomic Institute of Campinas – IAC), hay giống Mundo Nouvo đang phổ biến tại khu vực Trung Mỹ cũng được lai tạo từ cà phê Brazil.
Có nhiều giống cà phê khác nhau được trồng trên khắp Brazil và đa phần chúng được sinh ra tại đây bao gồm Mundo Novo, Yellow Bourbon, Caturra và Catuai
The World Atlas of Coffee: From Beans to Brewing – Coffees Explored, Explained and Enjoyed book by James Hoffmann
Origins Coffee – Resource: www.cafeimports.comBrazil
Coffee production in Brazil: www.en.wikipedia.org
(HNM) - Hiện nay, cả nước có 97 cơ sở chế biến cà phê nhân với tổng công suất thiết kế 1,5 triệu tấn/năm; 160 cơ sở chế biến cà phê rang xay, tổng công suất thiết kế 51,7 nghìn tấn sản phẩm/năm; 8 cơ sở sản xuất cà phê hòa tan, tổng công suất thiết kế 36,5 nghìn tấn sản phẩm/năm; 11 cơ sở chế biến cà phê phối trộn, tổng công suất thiết kế 139,9 nghìn tấn sản phẩm/năm.
Cà phê Việt Nam đã được xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, quy mô xuất khẩu lớn thứ hai thế giới, chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu.
Cà phê là một trong 6 mặt hàng xuất khẩu, đạt trên 3 tỷ USD/năm. Các thị trường xuất khẩu cà phê chính của Việt Nam bao gồm: Châu Âu, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh. Tại thị trường châu Âu, Việt Nam là nhà cung ứng cà phê lớn thứ hai sau Brazil (22,2%), chiếm 16,1% thị phần về lượng.
Xuất khẩu cà phê khoảng một thập kỷ trước trị giá 20 tỷ USD, đến nay nó đã lên đến 465,9 tỷ USD (theo GlobeNewswire). Mặc dù đại dịch toàn
Xuất khẩu cà phê khoảng một thập kỷ trước trị giá 20 tỷ USD, đến nay nó đã lên đến 465,9 tỷ USD (theo GlobeNewswire). Mặc dù đại dịch toàn cầu đã ảnh hưởng đến lượng cung cầu trên toàn thế giới, ngành cà phê vẫn tiếp tục hoạt động trở lại. Bên cạnh đó, xuất khẩu cà phê Việt Nam đã trải qua những bước chuyển mình tích cực và được chào đón nồng nhiệt trên thị trường quốc tế. Vậy cà phê Việt Nam đứng thứ mấy trên thế giới hiện nay?